Đánh giá về tác động của COVID – 19 đến doanh nghiệp
Dịch bệnh COVID-19 bắt đầu lây lan và bùng phát, trở thành đại dịch trên phạm vi toàn cầu từ đầu năm 2020. Đến nay, dịch bệnh COVID-19 vẫn tiếp tục hoành hành với nhiều biến chủng và khó lường, đã tác động nghiêm trọng đến hầu hết các nền kinh tế, trong đó Việt Nam. Đại dịch này đã làm ngưng trệ các hoạt động sản xuất kinh doanh và gây tê liệt đối với nhiều doanh nghiệp thuộc hầu hết các ngành kinh tế.
Theo Crovini (2019) đã chỉ ra đặc điểm đặc thù của doanh nghiệp nhỏ và vừa là có thị trường nhỏ trong lĩnh vực hoạt động; thường được quản lý bởi một chủ, nhóm hoặc một gia đình; có nguồn vốn hạn chế và khả năng tiếp cận thị trường vốn kém; khả năng quản lý hạn chế; thường khó tiếp cận với thị trường nước ngoài rộng mở và sự thay đổi của luật pháp. Bởi vậy, bất kỳ một diễn biến bất thường nào của môi trường kinh doanh cũng sẽ tạo ra những rủi ro và tổn thương nhất định, đáng kể cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa hơn so với các doanh nghiệp lớn.
Trong bối cảnh Đại dịch COVID-19, nhiều báo cáo và nghiên cứu đã chỉ ra tác động của Đại dịch đến hệ thống doanh nghiệp tại Việt Nam nói chung, trong đó đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Điều này trở nên là vấn đề hết sức đáng quan tâm khi nền kinh tế của Việt Nam có tới 97% doanh nghiệp là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. OECD (2020)… đều đã đưa ra những phân tích, đánh giá về tác động của COVID – 19 đến doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, đồng thời đưa ra các khuyến nghị chính sách cho Chính phủ và doanh nghiệp. Tuy nhiên, các báo cáo và nghiên cứu trên chưa phân tích và chỉ rõ những yêu cầu cần thiết để hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa một cách đồng bộ gắn với những đặc thù nói trên nhằm góp phần phục hồi các doanh nghiệp này một cách hiệu quả trong bối cảnh hiện nay. Bởi vậy, bài viết trên cơ sở các kết quả khảo sát của các tổ chức trong và ngoài nước sẽ tập trung nghiên cứu và đánh giá một cách toàn diện những tác động của Đại dịch COVID-19 tới hoạt động của doanh nghiệp nhỏ và vừa, qua đó đề xuất các chính sách từ phía Nhà nước cũng như giải pháp từ phía doanh nghiệp nhằm tăng cường khả năng thích ứng và phục hồi hiệu quả cho bộ phận doanh nghiệp này.
Tác động của Đại dịch COVID- 19 đến hoạt động của các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam
Thế giới đã trải qua 02 năm khó khăn trước Đại dịch COVID-19 hoành hành với nhiều biến chủng và khó lường. Đến nay, chúng ta vẫn chưa thể kiểm soát được tình hình dịch bệnh. Kể từ khi ghi nhận những ca mắc đầu tiên tại Vũ Hán, Trung Quốc vào tháng 12 năm 2019, cho đến ngày 30/4/2022 đại dịch đã lây lan trên toàn cầu với hơn 510 triệu ca mắc, trong đó có hơn 6,2 triệu ca tử vong (Thông Tấn Xã Việt Nam, 2022). Ở Việt Nam, theo Báo cáo của Bộ Y tế (2022), cũng đến thời điểm này chúng ta đã có khoảng 10,6 triệu ca nhiễm Covid và số ca tử vong là hơn 43 nghìn ca. Số ca nhiễm vẫn gia tăng hàng ngày dù chúng ta đã và đang thực hiện chiến lược phủ Vaccine cùng với các biện pháp phòng chống dịch bệnh khác.
Nền kinh tế Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế chung do tác động của Đại dịch COVID-19, bởi vậy tăng trưởng kinh tế Việt Nam đã liên tục giảm mạnh vào các năm 2020 và 2021 (Hình 1). Thời gian gần đây, tuy ca nhiễm có tăng nhưng chúng ta đã kiểm soát được tỷ lệ ca tử vong từ đó tạo cơ sở cho việc phục hồi và mở cửa trở lại nền kinh tế.
Bóng đen từ cuộc khủng hoảng do Đại dịch COVID-19 đã đảo ngược xu hướng tăng trưởng kinh tế bởi những biện pháp hạn chế, đóng cửa biên giới, giao thương giữa các khu vực và các nước, kéo theo các chỉ
số thất nghiệp tăng vọt, đẩy nhiều người vào tình trạng nghèo đói, nhiều doanh nghiệp phá sản. Trong bối cảnh này, các doanh nghiệp nhỏ và vừa luôn là đối tượng dễ bị tổn thương nhất và đứng trước nhiều rủi ro để tồn tại và phát triển bền vững. Cụ thể:
Với các quy mô khác nhau thì ảnh hưởng của Đại dịch COVID-19 tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng khác nhau. Theo VCCI & WB (2020), Đại dịch COVID-19 có sự ảnh hưởng tới hoạt động của các doanh nghiệp nhỏ và vừa mạnh mẽ hơn là các doanh nghiệp lớn ở hầu hết các khía cạnh ngoại trừ vấn đề tốn phí cho các phương tiện/dụng cụ vệ sinh phòng dịch. Điều này có thể dễ dàng giải thích, các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường có cơ sở vật chất hạn chế, trong khi các doanh nghiệp lớn lại thường sở hữu một cơ sở vật chất lớn. Khi doanh nghiệp gặp khó khăn, mỗi đồng chi phí tăng lên đều sẽ làm cho gánh nặng tài chính nặng thêm. Hoạt động sản xuất kinh doanh trong mùa dịch cũng khiến chi phí của doanh nghiệp gia tăng, như: việc phải đầu tư cho điều kiện sản xuất kinh doanh an toàn phù hợp tiêu chuẩn của Nhà nước (3 tại chỗ, 5K), nguồn cung đầu vào, chi phí vận chuyển… Một số doanh nghiệp nhỏ và vừa trong tâm dịch thậm chí phải ngừng hoạt động sản xuất do quy định phòng chống dịch trong khi họ vẫn phải trả các chi phí cố định, như tiền thuê mặt bằng, chi phí lao động.
Kết quả khảo sát của VCCI & WB (2020) cũng cho thấy, các doanh nghiệp lớn bị ảnh hưởng lớn hơn nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ trong các vấn đề thiếu hụt nguồn cung nguyên liệu đầu vào do khó khăn về vận chuyển trong nước/quốc tế (62,76%), do khó khăn của các nhà cung cấp nước ngoài (40%), do khó khăn của các nhà cung cấp trong nước (32,41%). Ngược lại, các doanh nghiệp nhỏ và vừa lại bị Đại dịch COVID-19 ảnh hưởng lớn hơn các doanh nghiệp lớn trong các vấn đề năng lực sản xuất suy giảm do các hạn chế hoạt động/làm việc tại nhà theo yêu cầu dãn cách xã hội (59,69%), khó dự đoán khối lượng dự trữ hàng hóa thích hợp (43,02%), chậm trễ trong việc bảo trì/hỗ trợ kỹ thuật do các biện pháp hạn chế việc di chuyển (32,17%). Các doanh nghiệp nhỏ và vừa bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi năng lực sản xuất suy giảm do các hạn chế hoạt động/làm việc tại nhà theo yêu cầu dãn cách xã hội (59,69%) tiếp đến là khó dự đoán khối lượng dự trữ hàng hóa thích hợp (43,02%).
Doanh thu của doanh nghiệp trong 6 tháng đầu năm 2020 có sự khác biệt nhất định giữa các nhóm doanh nghiệp với quy mô lao động khác nhau nhưng sự khác biệt là không nhiều. Cả hai nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa và nhóm doanh nghiệp lớn có tỷ lệ doanh nghiệp có doanh thu không thay đổi khá ngang bằng nhau ở mức dao động từ 8,28 tới 8,91%.
Ở chiều hướng bị giảm doanh thu thì nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ có vẻ như bị Đại dịch COVID-19 ảnh hưởng nhiều hơn so với nhóm doanh nghiệp lớn. Cụ thể, đối với mức doanh thu bị giảm hơn 50% hay mức doanh thu bị giảm từ 25% đến 50% thì nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa đều có tỷ lệ doanh nghiệp cao hơn nhóm doanh nghiệp lớn. Đối với mức doanh thu bị giảm từ 1% đến 25%, thì nhóm doanh nghiệp lớn lại có tỷ lệ doanh nghiệp cao hơn so với nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Dưới tác động của dịch bệnh, người dân bị hạn chế đi lại và công việc bị dừng trệ khiến cho nhu cầu mua sắm và tiêu dùng giảm mạnh. Mặc dù với hoạt động thương mại điện tử có thể phần nào khắc phục hiện tượng trên nhưng thu nhập của người dân giảm sút, thậm chí nhiều doanh nghiệp đóng cửa hoặc ngừng hoạt động, người lao động cũng có thể mất việc làm. Dịch bệnh cũng ảnh hưởng tới tâm lý tiêu dùng của người dân, họ có xu hướng tích luỹ và hạn chế tiêu dùng và du lịch làm ảnh hưởng tiêu cực đến các ngành dịch vụ.
Cũng theo khảo sát của VCCI & WB (2020), đa số doanh nghiệp nhỏ và vừa cho biết dịch bệnh đã ảnh hưởng tới việc tiếp cận khách hàng, ảnh hưởng về dòng tiền và ảnh hưởng về vấn đề nguồn lao động của doanh nghiệp. Chuỗi cung ứng của nhiều doanh nghiệp bị gián đoạn. Một số doanh nghiệp thì có nêu thêm các vấn đề khác, như: giảm đơn hàng, giảm sản lượng, chậm tiến độ đầu tư hay thậm chí phải huỷ dự án. Chi phí của doanh nghiệp tăng cao gồm: Chi phí phòng ngừa Đại dịch COVID-19, thiếu hụt chuyên gia nước ngoài. Các chương trình xúc tiến đầu tư ở trong và ngoài nước bị huỷ bỏ. Các vấn đề rủi ro về thu hồi công nợ, mất khả năng thanh toán cũng được các doanh nghiệp ghi nhận.
So sánh ảnh hưởng của Đại dịch COVID-19 đến các vấn đề liên quan đến hoạt động bán hàng của doanh nghiệp cho thấy nhóm doanh nghiệp lớn bị ảnh hưởng lớn hơn nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa trong các vấn đề thị trường nước ngoài bị thu hẹp (87,59%). Ngược lại, các doanh nghiệp nhỏ và vừa lại bị Đại dịch COVID-19 ảnh hưởng lớn hơn các doanh nghiệp lớn trong các vấn đề khó khăn trong việc giao tiếp để tìm kiếm khách hàng mới (72,87%), khó khăn trong việc giao tiếp để chăm sóc và theo dõi khách hàng hiện tại (46,51%), thị trường trong nước bị thu hẹp (44,19%).
Về lĩnh vực kinh doanh bán lẻ, các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam trong ngành bán lẻ cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp của Đại dịch. Năm 2021, có tới 92% doanh nghiệp ngành bán lẻ đánh giá bị tác động của Đại dịch và chỉ có 8% là bị ảnh hưởng ít và không đáng kể (Ngọc Quỳnh, 2021). Nguyên nhân chủ yếu do tổng cầu thị trường giảm mạnh, việc cắt giảm chi tiêu của số đông người lao động khi họ phải nghỉ việc do dịch bệnh bùng phát dẫn tới thu nhập sụt giảm, thêm vào đó là những khó khăn nội tại của doanh nghiệp như thiếu hụt nguồn vốn kinh doanh, đứt gãy chuỗi cung ứng khi đa số nguồn hàng, nguyện nhiên liệu phục vụ sản xuất có xuất sứ từ Trung Quốc. Theo khảo sát của CBRE (2020), số doanh nghiệp bán buôn, bán lẻ tạm ngừng kinh doanh tăng 21% so với năm 2019. Doanh thu ngành bán lẻ tăng 4,7% năm 2020 nhưng thấp hơn so với 2019 là 9,3%. Mặc dù doanh thu mua sắm trực tiếp giảm nhưng ngành bán lẻ Việt Nam vẫn ghi nhận những bước phát triển bứt phá từ thương mại điện tử, mua sắm trực tuyến và dịch vụ giao hàng.
Đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ hải sản thì gặp khó khăn chủ yếu trong xuất khẩu hàng hoá và nhập khẩu các nguyên liệu phụ trợ nông nghiệp. Bên cạnh đó sự đứt gãy chuỗi ngành hàng từ sản xuất đến vận chuyển, chế biến, phân phối khó khăn, ngưng trệ vào đầu mùa dịch. Theo Cấn Văn Lực (2020)), nhiều mặt hàng nông nghiệp, thuỷ sản xuất sang các thị trường truyền thống như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, EU và ASEAN bị giảm mạnh do chính sách phòng chống covid của mỗi quốc gia . Theo HSE, kinh ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông – lâm sản giảm 4,5%, thuỷ sản giảm 11,2% trong quý I/2020 so với cùng kỳ năm ngoái, trong khi cao su giảm 26,1%, rau quả giảm 11,5%, cafe 6,4%. Tuy nhiên, dưới sự chỉ đạo linh hoạt của Chính phủ đồng thời tận dụng được lợi thế từ các FTAs thế hệ mới, xuất khẩu nông lâm thuỷ sản cao kỷ lục 48,6 tỷ USD, tăng 14,9% so với năm 2020, trong đó nông sản chiếm 21,49 tỷ USD, lâm sản chiếm 15,96 tỷ USD, thuỷ sản trên 8,89 tỷ USD, chăn nuôi khoảng 434 triệu USD (Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, 2021).
Sang năm 2021 đến nay, sự bùng phát mạnh của làn sóng Đại dịch COVID-19 lần thứ 4 cùng với các đợt phong tỏa, giãn cách kéo dài đã tiếp tục “bào mòn” sức lực của nhiều doanh nghiệp, trong đó phần lớn là những doanh nghiệp thành lập dưới 5 năm và là những doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tổng số doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường trong năm chỉ đạt gần 160 ngàn doanh nghiệp, giảm 10,7% so với năm 2020; gần 120 ngàn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, tăng 17,8%, phần lớn là các doanh nghiệp thành lập dưới 5 năm, quy mô vốn nhỏ.
Bài cùng danh mục:
Vai trò môi trường tự chủ và động lực nội tại đến sự sáng tạo của người lao động
Mối quan hệ giữa sự đánh giá hàng ngoại và hành vi tiêu dùng hàng nội
Xử lý khiếu nại và niềm tin của khách hàng trong kinh doanh – by SeoTravel
Tiêu chí đánh giá lợi thế cạnh tranh trong sản xuất như thế nào?
Chất lượng dịch vụ trong giáo dục đại học đối với Sự hài lòng của sinh viên
Nhân tố tác động đến hành vi mua sắm hợp kênh Omnichannel
Bài viết nỗi bật
Tác động đại dịch COVID-19 đến tỷ suất sinh lợi cổ phiếu trên thị trường
Thị trường chứng khoán là phong vũ biểu đo lường sức khỏe tài chính của mỗi quốc gia, thường nhạy...
Vấn đề bảo hiểm khi du học tại Hoa Kỳ
Bảo hiểm khi du học tại Hoa Kỳ Thông tin du học ở Hoa Kỳ: Bảo hiểm Không ai muốn...
Yếu tố quy mô doanh nghiệp đối với tác động của đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp
Lý thuyết lợi thế kinh tế vì quy mô cho rằng doanh nghiệp có thể tiết kiệm chi phí hơn...
Bản chất ý nghĩa của tiền lương tối thiểu
Bản chất ý nghĩa của tiền lương tối thiểu Một số khái niệmPhân loại tiền lương tối thiểuVai trò của...